Không như lãi suất huy động, lãi suất cho vay thường được các ngân hàng ít khi công bố rộng rãi. Điều này khiến việc theo dõi và đánh giá mặt bằng lãi suất cho vay gặp nhiều khó khăn hơn. Tuy nhiên, với việc lãi suất huy động đã đi lên trong thời gian qua, thì lãi suất cho vay khó lòng mà đứng yên.
Khó theo dõi lãi suất cho vay
Thời gian qua, khung lãi tiền gửi của nhiều ngân hàng liên tiếp được điều chỉnh tăng lên,. Trong bối cảnh các yếu tố gây áp lực lên lãi suất xuất hiện ngày càng nhiều. Từ lạm phát, tỷ giá cho đến thanh khoản của hệ thống giảm mức độ dồi dào. Sau những đợt hút tiền đồng về của nhà điều hành thông qua kênh mua ngoại tệ.
Đáng lưu ý là sự điều chỉnh không chỉ đến từ nhóm ngân hàng nhỏ, quy mô trung bình. Mà ngay cả các ngân hàng lớn thuộc nhóm NHTM Nhà nước cũng bắt đầu tham gia. Điều này đã đẩy lãi suất huy động lên một mặt bằng mới và khiến nhiều người lo ngại lãi suất cho vay sẽ dâng lên theo.
Tuy nhiên, nếu như việc theo dõi lãi suất tiền gửi tại các ngân hàng dễ dàng bao nhiêu. Nhờ vào các ngân hàng luôn định kỳ công bố khung lãi suất huy động vốn lên trang chủ điện tử của ngân hàng. Hoặc nhanh chóng cập nhật mỗi khi thay đổi, thì việc theo dõi và đánh giá. Phân tích lãi suất cho vay gặp không ít khó khăn do việc tiếp cận thông tin vay còn nhiều hạn chế.
Nhiều ngân hàng vẫn thường xuyên công bố các chương trình cho vay
Lãi suất ưu đãi cụ thể, rõ ràng tuy nhiên thực tế các mức lãi suất ưu đãi này chỉ mang tính tham khảo. Tồn tại trong thời gian ngắn theo thời hạn ưu đãi, thời hạn của gói vay. Chứ không nói lên được mặt bằng lãi cho vay của từng ngân hàng nói riêng và thị trường nói chung.
Mặc dù NHNN thời gian qua cũng đã liên tiếp có các chính sách. Quy định yêu cầu các ngân hàng phải niêm yết khung lãi suất cho vay công khai. Minh bạch trên trang mạng điện tử, truyền thông rõ ràng đến khách hàng. Tuy nhiên cho đến thời điểm này việc cung cấp. Cập nhật trên website của các ngân hàng là khá hạn chế. Nếu có cũng chỉ ở mức thông tin chung chung, trong khi khung lãi cho vay của các ngân hàng thực tế phức tạp hơn nhiều so với khung lãi suất tiền gửi. Từ quy định áp dụng theo kỳ hạn, theo sản phẩm, theo loại khách hàng, tính chất rủi ro cũng như theo loại tài sản đảm bảo.
Xem thêm: Vay tiền SHB Finance

Tham khảo lãi suất cơ sở
Chính vì việc thống kê, tiếp cận lãi cho vay khó khăn như thế. Nên việc đánh giá mặt bằng lãi suất cho vay diễn biến như thế nào thường có tính chậm trễ. Chủ yếu quan sát mặt bằng lãi suất huy động để dự báo cho lãi suất cho vay. Dù vậy, một giải pháp khác để đánh giá diễn biến lãi suất cho vay tại các ngân hàng có thể căn cứ vào lãi cơ sở tham chiếu. Mà thường được các ngân hàng cập nhật khá đều đặn và công khai trên trang web. Để khách hàng tham khảo và cũng là cách mà ngân hàng truyền thông sớm cơ sở điều chỉnh lãi cho vay. Đến những khách hàng đang vay vốn tại ngân hàng.
Về cơ bản, lãi suất cơ sở là mức lãi tham chiếu cộng thêm một biên độ theo quy định (tùy theo sản phầm, kỳ hạn vay,..)
Để xác định lãi suất cho vay dành cho khách hàng. Vì vậy, khi lãi suất cơ sở tăng lên thì lãi cho vay có xu hướng tăng theo. Do đó việc quan sát lãi suất cơ sở để đánh giá lãi suất cho vay là có cơ sở.
Cần biết rằng lãi suất cơ sở được tính toán dựa trên các thông số đầu vào như chi phí vốn bình quân. (chủ yếu biến động theo khung lãi huy động vốn và cơ cấu vốn của ngân hàng). Kế đến là các yếu tố như rủi ro chênh lệch kỳ hạn, thanh khoản của ngân hàng. Vì vậy, những ngân hàng nào có chi phí vốn bình quân càng thấp. Thì lãi suất cơ sở cũng có xu hướng thấp hơn so với mặt bằng chung trên thị trường. Từ đó lãi cho vay cũng thấp hơn.
Tuy nhiên, đáng lưu ý là thời điểm hiện nay khá nhiều ngân hàng. Áp dụng lãi suất cơ sở chính là lãi suất tiền gửi tiết kiệm ở kỳ hạn 12 tháng hoặc 13 tháng. Chính vì vậy mà trong thời gian qua. Nhiều người không khỏi ngạc nhiên khi chứng kiến lãi tiền gửi kỳ hạn 12 tháng hoặc 13 tháng. Áp dụng tại nhiều ngân hàng được đẩy lên mức khá cáo so với khung lãi suất tiền gửi chung. Thậm chí cao hơn nhiều so với các kỳ hạn dài hơi hơn như 18, 24 hay 36 tháng.
Nhiều ngân hàng áp dụng lãi suất ở mức cao từ 7.5 – 8.5%
Tuy nhiên một số chỉ áp dụng đối với các khoản tiền gửi có giá trị lớn, thường từ 100 tỷ đồng trở lên. Do đó, thực tế có rất ít khách hàng gửi tiền được hưởng mức lãi suất cao như vậy. Rõ ràng các ngân hàng có cơ sở và động lực để hạn chế sự suy giảm của biên độ lãi suất trước xu hướng đi lên của lãi suất tiền gửi. Mà có thể ảnh hưởng đến các hệ số sinh lời cũng như kế hoạch lợi nhuận.
Quay lại với câu chuyện mặt bằng lãi suất cho vay. Quan sát cho thấy lãi suất cơ sở của nhiều ngân hàng đã liên tiếp được điều chỉnh tăng lên trong 2 tháng gần đây. Như tại Sacombank, lãi suất cơ sở cũng chính là lãi suất tiền gửi tiết kiệm 13 tháng. Đã được điều chỉnh trong tháng 8 tăng thêm 0.2% so với tháng trước, lên 7.8%. Diễn biến tương tự cũng xảy ra ở Ngân hàng Bắc Á khi tăng thêm 0.15%, lên 8%.
Hay như tại SeABank, lãi suất cơ sở vốn áp theo tiền gửi tiết kiệm 14 tháng cũng tăng từ 8.1% lên 8.2%.
Một NHTM Nhà Nước là VietinBank cũng tăng lãi suất cơ sở. Vốn tham chiếu theo lãi suất tiền gửi tiết kiệm 36 tháng, cũng tăng thêm 0.1%, lên 6.9%. Hay trước đó trong tháng 7, VPBank cũng đã tăng lãi suất cơ sở thêm 0.2%, lên 7.4%.
Trước áp lực lãi suất đi lên như trên đe dọa đến ổn định vĩ mô và làm hạn chế tăng trưởng kinh tế. Vì vậy trong phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 8 vừa qua. Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu NHNN tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt. Hỗ trợ thanh khoản hợp lý cho các tổ chức tín dụng. Đồng thời kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào lĩnh vực bất động sản.
Các ông lớn ngân hàng lại tiếp tục kêu thiếu tiền
Lãnh đạo các ngân hàng đề xuất cho phép được giữ lại cổ tức để tăng vốn, thay vì nộp ngân sách nhà nước.
Để đảm bảo tỉ lệ hệ số an toàn vốn (CAR), là thước đo quan trọng để đo mức độ an toàn hoạt động của ngân hàng (NH) theo tiêu chuẩn Basel II,. Nhu cầu tăng vốn của các tổ chức tín dụng là rất lớn, đặc biệt đối với các NH thương mại nhà nước. Nếu không khẩn trương tăng vốn, khả năng tăng trưởng của các ông lớn NH sẽ chững lại. Rất khó khăn đối với việc tăng trưởng tín dụng để phục vụ nền kinh tế.
“Thiếu vốn là vấn đề rất cấp bách”
Bốn NH thương mại nhà nước gồm Vietcombank. VietinBank, BIDV và Agribank liên tục kêu thiếu vốn. Mới đây nhất, tại hội nghị liên quan tới xử lý nợ xấu. Ông Nghiêm Xuân Thành, Chủ tịch HĐQT Vietcombank, cho hay. Đối với các NH thương mại nhà nước, việc tăng vốn là cấp bách hơn bao giờ hết. Lý do là hiện nay, hệ số an toàn vốn dù chưa áp dụng theo Basel II nhưng đã chạm ngưỡng thiếu an toàn. Nếu áp dụng theo tiêu chuẩn trên, tỉ lệ này đã vi phạm ngưỡng an toàn.

Tăng vốn là một trong những nhiệm vụ cấp bách của tổ chức tín dụng
Do đó kiến nghị Chính phủ cho phép bổ sung vốn điều lệ cho các NH thương mại nhà nước. Thông qua việc cho phép được giữ lại cổ tức hằng năm để tăng vốn. Đồng thời đề nghị Chính phủ rà soát cơ chế vừa tuân thủ pháp luật để vừa đảm bảo quyền lợi cổ đông. Vừa triển khai được hiện hữu trong thực tế” – ông Thành đề nghị.
Không chỉ Vietcombank mà ba ông lớn khác là Agribank, VietinBank và BIDV cũng cần tăng vốn. Theo ông Trịnh Ngọc Khánh, Chủ tịch HĐQT Agribank, hiện Agribank là NH thương mại 100% vốn nhà nước. Do đó việc tăng vốn điều lệ dựa vào ngân sách nhà nước là chính. Vốn điều lệ hiện nay của NH là 30.000 tỉ đồng.
Đây là mức thấp nhất trong nhóm bốn NH thương mại nhà nước
Điều này dẫn tới năng lực tài chính hạn chế. Tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu thấp làm ảnh hưởng việc triển khai hoạt động kinh doanh. Đặc biệt là đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn” – ông Khánh cảnh báo.
Để khắc phục tình trạng trên, các ngân hàng đều cho biết đã tìm nhiều cách như bán bớt phần vốn nhà nước. Cấu trúc lại danh mục tài sản có… nhưng vẫn thiếu vốn.
Đề cập đến vấn đề này, ông Nguyễn Văn Du, Phó Chánh Thanh tra, giám sát NH thuộc Cơ quan Thanh tra, giám sát NH Nhà nước, khẳng định. Các NH thương mại quốc doanh đang gặp nhiều khó khăn trong việc nâng vốn điều lệ.
“Nguyên nhân là do nghị quyết của Quốc hội không cho phép sử dụng ngân sách để cấp vốn cho NH thương mại. Nguồn ngân sách để tăng vốn cho các NH này cũng không có trong danh sách đầu tư trung hạn” – ông Du cho hay.
Xem thêm: Vay tín chấp ngân hàng Đại Dương
Sẽ có ngay 6.000 tỉ đồng nếu…
TS Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính NH, cho rằng việc hướng đến các chuẩn mực an toàn theo Basel II là cần thiết đối với hệ thống NH Việt Nam. Có điều là để đạt được chuẩn Basel II như mục tiêu đề ra. Vấn đề mấu chốt là Nhà nước phải chấp thuận cho các NH thuộc khối quốc doanh được giữ lại lợi nhuận để tăng vốn điều lệ.
Nghĩa là thay vì chia cổ tức tiền mặt thì cho phép các ngân hàng chia cổ tức bằng cổ phiếu. Theo tính toán, nếu phương án giữ lại lợi nhuận để tăng vốn điều lệ được Nhà nước thông qua. Riêng ba NH gồm VietinBank, Vietcombank và BIDV sẽ có thêm khoảng 6.000 tỉ đồng để tăng vốn ngay lập tức.
Các NH quốc doanh có thể phát hành các chứng chỉ tiền gửi
Ngoài ra, để tăng thêm vốn chủ sở hữu. Bên cạnh đó, cần phải giảm tỉ lệ sở hữu vốn nhà nước tại các NH quốc doanh này xuống mức 51%.
“Bởi chừng nào Nhà nước vẫn nắm giữ vốn với tỉ lệ đủ để chi phối các hoạt động nhưng lại không thể bơm vốn vào cho những NH này. Thì họ sẽ khó có khả năng đáp ứng được hệ số an toàn vốn theo Basel II. Điều này giống như vòng bế tắc, không có lối thoát” – ông Hiếu phân tích.
Kết Luận
Ông Nguyễn Văn Du, Phó Chánh Cơ quan Thanh tra, giám sát NH Nhà nước. Cho biết NH Nhà nước đã kiến nghị Chính phủ nâng cao năng lực tài chính cho các NH quốc doanh. Đáp ứng được yêu cầu vốn tối thiểu theo Basel II. Đồng thời NH Nhà nước kiến nghị Chính phủ chấp thuận về chủ trương. Kế hoạch vốn và phương án tăng vốn cho các NH thương mại nhà nước của từng năm tài chính giai đoạn 2018-2020. Và cơ chế tăng vốn để bù đắp mức thiếu hụt vốn dự kiến theo từng năm tài chính của các NH theo các thứ tự ưu tiên.
Mới đây, tại hội nghị liên quan đến xử lý nợ xấu. Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ cũng nhìn nhận việc tăng vốn với các NH quốc doanh là cấp bách cần thực hiện ngay. Chính phủ cũng đang tìm giải pháp để tăng vốn cho bốn NH.